Sinh thời, nghiên cứu tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét “Đường lối chiến lược, sách lược ngoại giao và hoạt động quốc tế của Người là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (lấy cái không thể thay đổi để đối phó với muôn sự thay đổi). Người kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, khơi nguồn triệt để sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”(1).
Quan điểm đối ngoại này của Người đã được Đảng ta kế thừa, vận dụng qua chủ trương đấu tranh ngoại giao vừa đánh, vừa đàm trong đàm phán Hiệp định Paris. Thắng lợi của việc ký kết Hiệp định Paris năm 1973 là kết quả của sự kết hợp giữa các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, thể hiện sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris, tạo ra bước ngoặt lịch sử để dân tộc ta tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.
Chủ trương “có tác chiến, có đàm phán” đã được đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề cập đến từ năm 1962. Tháng 7/1965, Bộ Chính trị đã bắt đầu nghiên cứu các khả năng đàm phán với Mỹ. Tháng 10/1966, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch vừa đánh, vừa đàm, gồm ba bước: đàm phán hai bên, đàm phán bốn bên và tổ chức một hội nghị quốc tế xác nhận những kết quả đàm phán.
Bước sang năm 1967, với những thắng lợi liên tiếp của nhân dân ta ở hai miền đất nước, trước những biến chuyển có lợi trên mặt trận chính trị và quân sự, Hội nghị lần thứ 13 (1/1967) Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở mặt trận ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm phán, đưa ngoại giao trở thành thành một mặt trận, chủ động vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng.
Các đợt tấn công ngoại giao kết hợp tấn công quân sự Tết Mậu Thân năm 1968 của Việt Nam đã gây chấn động nước Mỹ. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Lyndon Baines Johnson phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc từ vỹ tuyến 20 trở ra, không tiếp tục tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) tại Paris. Bộ Chính trị quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi vào cục diện vừa đánh, vừa đàm. Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris khai mạc. Lúc này, Mỹ vẫn chưa chấp nhận nói chuyện chính thức với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN). Chính phủ VNDCCH đã thể hiện lập trường cương quyết yêu cầu Mỹ công nhận MTDTGPMN và phải cùng đàm phán chính thức với MTDTGPMN.

Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Mỹ tại Paris, ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN
Ngày 18/1/1969, phiên họp đầu tiên của Hội nghị Paris về Việt Nam khai mạc tại phòng họp của Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris, Pháp. Ngày 25/1/1969, Hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Hoa Kỳ, MTDTGPMN và Việt Nam Cộng hòa chính thức khai mạc.
Tháng 5/1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ”, nhận định cuộc chiến tranh có thể diễn ra theo hai khả năng. Một là: Mỹ phải kết thúc chiến tranh sớm bằng một giải pháp chính trị. Hai là: Mỹ cố gắng kéo dài cuộc chiến tranh để tìm cách xuống thang trên thế mạnh trước khi phải chấp nhận một giải pháp chính trị. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ tấn công ngoại giao phải nắm vững thời cơ, phối hợp với tấn công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị, đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta.
Tại những phiên họp của Hội nghị bốn bên, MTDTGPMN - đại diện cho nhân dân miền Nam bày tỏ quan điểm và nguyện vọng về việc kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình, thống nhất đất nước. Ngày 8/5/1969, MTDTGPMN công bố giải pháp Mười điểm về lập trường, nguyên tắc giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam. Đây là giải pháp hoàn chỉnh đầu tiên được đưa ra tại Hội nghị bốn bên. Ngày 14/5/1969, Tổng thống Richard Milhous Nixon đưa ra kế hoạch Tám điểm với nội dung chính là việc rút quân Mỹ, rút quân miền Bắc và giữ chính quyền Sài Gòn, đồng thời tăng cường chi viện cho chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc nhân dân Việt Nam phải thương lượng dưới sức ép của bom đạn Mỹ.
Ngày 6/6/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) được thành lập. Từ đây, CPCMLTCHMNVN là một bên đối thoại trong cuộc đấu tranh ngoại giao. Mặc dù phía Mỹ gây không ít khó khăn, song Đoàn CPCMLTCHMNVN luôn thể hiện rõ thiện chí mong muốn tìm giải pháp hòa bình cho miền Nam Việt Nam. Tại Hội nghị Paris, hai đoàn đàm phán của Việt Nam đã kết hợp đấu tranh với đối phương trong các phiên họp công khai và các phiên họp riêng, cùng tuyên truyền vận động dư luận ủng hộ Việt Nam. Tuy hình thức, phương châm hoạt động có khác nhau, nhưng cả hai đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, cùng thực hiện một mục tiêu, chiến lược chung buộc Mỹ chấm dứt mọi hoạt động xâm lược, rút hết quân về nước, công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 25/8/1969, trả lời thư của Tổng thống Mỹ Richard Milhous Nixon, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và của dân tộc Việt Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài. Đó là cách đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam phù hợp với quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam, với lợi ích của nước Mỹ và nguyện vọng hoà bình của nhân dân thế giới. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự”(2).
Trong những cuộc hội đàm, CPLTCHMNVN đưa ra những yêu cầu đòi Mỹ phải rút nhanh toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, thành lập ở miền Nam Việt Nam một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần để tổ chức tuyển cử. Đồng thời, để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chủ trương của Đảng đề ra tập trung trong Nghị quyết Trung ương 18, 19 và 20: Kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, thực hiện tổng tiến công liên tục, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ cả về chính trị, quân sự và ngoại giao.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lời chúc Tết năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh -“Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và Di chúc thiêng liêng của Người, quân dân miền Nam cùng với miền Bắc ra sức đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ, giành được nhiều chiến thắng, trong đó, tiêu biểu là Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào, bước đầu đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Đối mặt với các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ, cùng những đòn tấn công ngoại giao trên bàn đàm phán, tháng 7/1970, Tổng thống Nixon phải ra lệnh rút dần quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ buộc phải từng bước “xuống thang” chiến tranh, và dùng các thủ đoạn ngoại giao “ngừng bắn tại chỗ”, “hai bên cùng rút quân”…
Nhận định đây là thời điểm đi đến một giải pháp thương lượng, tháng 7/1972, Bộ Chính trị quyết định chuyển hướng chiến lược, thúc đẩy cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến tranh trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ, giành một bước thắng lợi quan trọng, tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên một bước mới, nhanh chóng khôi phục và xây dựng miền Bắc.
Ngày 17/9/1972, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy nhanh cuộc đàm phán Paris, đi đến ký kết trước tháng 11/1972, tập trung giải quyết mục tiêu thứ nhất lúc này là “đánh cho Mỹ cút”, chủ động nới lỏng vấn đề chính quyền ở miền Nam… Ngày 8/10/1972, phái đoàn VNDCCH đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và hai bên thảo luận cụ thể từng điều khoản, từng câu chữ của Hiệp định. Ngày 20/10, Tổng thống Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định “Văn bản của Hiệp định bây giờ có thể xem như đã hoàn thành” và thỏa thuận sẽ ký vào ngày 31/10/1972. Kết quả này thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa hai đoàn của Việt Nam trong suốt quá trình đàm phán. Tại Hội nghị, Đoàn VNDCCH vừa đưa ra lập trường riêng của mình, vừa ủng hộ mạnh mẽ lập trường, các sáng kiến hòa bình của Đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng thời tập trung vào cuộc đấu tranh thương lượng với Mỹ khi cuộc đàm phán đi vào giai đoạn thực chất.
Tuy nhiên, sau khi tái đắc cử, Tổng thống Nixon trở mặt, Mỹ đưa ra nhiều lý do để trì hoãn việc ký Hiệp định. Cuộc đàm phán diễn ra căng thẳng, bế tắc trong suốt tháng 11 và đầu tháng 12/1972. Thực hiện ý đồ muốn đàm phán trên thế mạnh, ngày 18/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon cho máy bay chiến lược B.52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh, thành phố ở miền Bắc, mở đầu chiến dịch mang mật danh “Cuộc hành quân Lineblacker II”, để buộc Việt Nam phải nhân nhượng. Âm mưu này của Mỹ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiên đoán “Đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua ở Việt Nam nhưng chúng chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(3).
Thực hiện lời dạy của Người, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B-52, làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” buộc Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, các bên ký tắt ngày 23/1/1973 và ký chính thức ngày 27/1/1973 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.

Lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris, Pháp, ngày 27/1/1973. Ảnh: TTXVN
Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam là một Hội nghị dài nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới, kéo dài 5 năm (1968 - 1973). Đây là Hội nghị phản ánh rõ nét nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, góp phần quan trọng vào thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào ngày 30/4/1975.
Thắng lợi ngoại giao này có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam và đối với phong trào cách mạng thế giới. Quan trọng hơn cả, cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm lịch sử ngoại giao quý giá. Hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức, “dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường... Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp…”(4). Vì vậy, những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh ngoại giao của Hội nghị Paris cách đây 50 năm vẫn có ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc.
--------
(1) Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao (In lần thứ 2), có bổ sung, Nxb.Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr. 5.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 603.
(3) Hồi ký Thượng tướng Phùng Thế Tài: Trọn một đời đi theo Bác, Thế Kỷ ghi, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2014, tr. 391.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 30-31.
Ths. Nguyễn Trường Phú
Bảo tàng Hồ Chí Minh