Bình đẳng giới là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng ta từ khi ra đời đến nay, gần đây trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện hiệu quả các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ” (19). Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có một bộ luật riêng - Luật Bình đẳng Giới - Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 nhằm luật hóa các quan điểm của Đảng ta về bình đẳng giới trong thời kỳ mới. Trong đó, tại Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới, Luật đã xác định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Ngay từ năm 1946, trong Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới, mục tiêu bình đẳng giới đã được ghi nhận. Tiếp đó, trong các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình đẳng giới đều được quy định rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 quy định “công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 26).
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, chính sách và bộ máy, Việt Nam đạt được những thành quả hết sức cơ bản về bình đẳng giới. Về chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo tăng lên trong giai đoạn vừa qua. Đặc biệt, hiện có 2 phụ nữ được bầu vào Bộ Chính trị và 1 phụ nữ được bầu vào Ban Bí thư, nhiều phụ nữ được bầu vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhiều địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội có tỷ lệ nữ lãnh đạo cao, góp phần tham gia vào bộ máy lãnh đạo, đây chính là tư duy chiến lược để khơi dậy và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…
Tuy nhiên, khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo (tham chính) còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Phấn đấu để khắc phục những khoảng cách giới là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm lợi ích của từng giới trong việc thực thi quyền con người ở Việt Nam như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi vấn đề bình đẳng nam - nữ là “một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội... Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”(20).
Theo đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực chính trị hiện nay cần quán triệt và thực hiện các giải pháp mang tính đột phá đó là: Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu toàn diện và vận dụng sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong điều kiện mới. Thứ hai, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc cụ thể các chủ trương và định hướng về sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý theo đúng tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba, xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ, trong đó chú trọng đến công tác quy hoạch nguồn lãnh đạo nữ các cấp, các ngành “vừa hồng, vừa chuyên”. Thứ tư, phát huy vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp và nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị.
--------------
Chú thích:
(1) (4) (12) (13) (14) (16) (17) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.507; tr.300; tr.300; tr.300; tr.705; tr.706; tr.707; tr.301
(2) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, tr.507
(3) (8) (9) (10) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, tr.61; tập 3, tr.1; tr.22; tr.630
(5) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, tr.7
(6) (7) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, tr.406; tr.406
(11) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, tr.510
(18) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, tr.60
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011,tr.304.
(20) Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, tr.342
Nguyễn Bảo Minh
Theo http://hochiminh.vn