Đăng ký tham quan

Các bạn có thể đăng ký tham quan trực tuyến bằng cách điền vào các thông tin sau và gửi cho chúng tôi:

Tính năng này Bảo tàng đang triển khai và hoàn thiện trong thời gian sắp tới. Để mua vé tham quan Bảo tàng, Quý khách vui lòng liên hệ đến số điện thoại:
024.38463757/

Trân trọng cảm ơn

Đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ
Ngày đăng: 07:08 24/07/2024
Lượt xem: 91

Kế thừa truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc, đặc biệt thấu hiểu những hy sinh, cống hiến của các anh hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, theo Hồ Chí Minh: “Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của thế hệ đi sau đối với sự hy sinh lớn lao của thế hệ đi trước.

 

Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, ngày 2/9/1955. (Ảnh tư liệu)

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ

 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định công lao to lớn và dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Từ bức thư đầu tiên năm 1947, sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ được 7 tháng cho tới trước khi Người mất (năm 1969), hầu như năm nào Bác Hồ cũng có thư gửi thương binh, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ, nhất là vào dịp các ngày thương binh, liệt sĩ (27/7). Đồng thời, Người cũng đưa ra những chỉ dẫn, ý kiến quan trọng về thương binh, liệt sĩ trong nhiều dịp khác như: Trong buổi lễ đặt vòng hoa ở Đài Liệt sĩ (31/12/1954), buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (5-1-1960), lễ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (5-9-1960), trong các thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng là Bộ trưởng Bộ Thương binh (1-1947, 27-7-1949, 7-1951,27-7-1952, 27-7-1956), v.v... Qua các bài viết, bài nói đó và từ thực tiễn dù bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ.
 
Cách mạng Tháng Tám thành công, dù bộn bề với bao công việc của người đứng đầu đất nước, nhất là trong cảnh thù trong, giặc ngoài “nghìn cân treo sợi tóc”, nhưng Hồ Chí Minh đã luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sĩ. Trong Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi, đăng trên báo Cứu quốc ngày 7/11/1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi” [1]. Tiếp đó, trong thư Gửi đồng bào Việt Nam, người Pháp và người thế giới, Bác lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”.
 
Đặc biệt, ngày 16/2/1947, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 20/SL về chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ. Đây là văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về chế độ chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đến tháng 6/1947, Người đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm Ngày Thương binh toàn quốc để đồng bào có dịp tỏ lòng kính trọng, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị đã họp ở Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27/7 hàng năm làm Ngày Thương binh toàn quốc (năm 1955 được đổi tên thành Ngày Thương binh, liệt sĩ) và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
 
Ghi nhận và đánh giá cao sự hy sinh và cống hiến to lớn của các thương binh, liệt sĩ, Người khẳng định: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta” [2]. Trong buổi lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người nhấn mạnh: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ” [3].
 
Cảm thông với những thiệt thòi của thương binh, liệt sĩ và gia đình họ trong cuộc sống hoà bình, Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào chia sẻ với những tâm tư, mất mát lớn của thương binh, liệt sĩ. Người viết: “Cách mấy ngày trước, họ là những thanh niên lành mạnh, vui vẻ, oanh liệt. Trải qua những ngày ăn gió nằm sương, những trận mưa bom bão đạn, họ bị tay què chân cụt, họ hoá ra thương binh”. Người khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với Nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ” [4]. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sỹ, những người đã hy sinh tính mệnh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của Nhân dân. Người căn dặn: “Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy” và “chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta” [5].
 
Hồ Chí Minh có nhiều sáng kiến phát động các phong trào để Nhân dân giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Năm 1948, Người đề xuất với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành lập các “Hội mẹ chiến sĩ”, “Hội ủng hộ thương binh”. Hoạt động của hội đã rất thiết thực, gắn bó tình quân dân thắm thiết, hết lòng giúp đỡ bộ đội, thương binh bằng tấm lòng cao cả nhân ái của các mẹ, các chị. Với các cháu thiếu nhi, Người gợi ý thành lập những “Đội Trần Quốc Toản” nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ. Năm 1951, Người phát động phong trào “Đón thương binh về làng” để Đảng, chính quyền, đoàn thể và Nhân dân các làng, xã giúp đỡ thương binh những công việc phù hợp để họ có thể tự tin sinh sống, hoà nhập với cộng đồng.
 
Không chỉ dừng lại ở những lời kêu gọi mộc mạc, chân thành, giản dị, xúc động lòng người mà tình cảm bao dung, che chở của Bác đối với thương binh và liệt sĩ còn thể hiện bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Dù bận trăm công nghìn việc, nhưng hầu như năm nào Người cũng gửi thư, tặng quà hoặc tới thăm thương binh và gia đình liệt sĩ. Người trích một phần lương của mình, các món quà của đồng bào kính tặng, để tặng cho các đồng chí thương binh và gia đình liệt sĩ.
 
Cùng với việc kêu gọi, yêu cầu trách nhiệm của toàn xã hội đối với anh em thương binh, gia đình liệt sĩ, Hồ Chí Minh cũng luôn động viên anh chị em thương binh phấn đấu trở thành những người “tàn nhưng không phế”, hăng hái, lạc quan đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: “Khi đã khôi phục sức khoẻ, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác tăng gia sản xuất, để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận. Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí”. Đồng thời, Người chỉ ra những công việc thật cụ thể, phù hợp để anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những công việc nhẹ như học may vá, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng giấy, việc bình dân học vụ trong làng, v.v...
 
Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét” [6]. Gần 55 năm đã qua đi, nhưng lời căn dặn của Bác Hồ vẫn khắc sâu trong tâm khảm của mỗi người dân đất Việt về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ - những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân.
 

Chăm lo tốt hơn nữa đời sống cho thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng trong thời kỳ mới

 
Sự quan tâm của Bác Hồ với thương binh, gia đình liệt sĩ không chỉ là sự trân trọng, tiếc thương mà còn thể hiện sự tự hào, gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người đã hy sinh sự sống của mình cho độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Người đã gắn sự tổn thất lớn lao của những thương binh, gia đình liệt sĩ vào ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn thể những người được sống trong hòa bình hôm nay.
 
Quán triệt, thực hiện ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, trong suốt mấy chục năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm và đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ cùng những gia đình người có công với cách mạng. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc con liệt sĩ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sĩ, v.v.. ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội trong phạm vi cả nước. Điều này không chỉ góp phần ổn định và nâng cao mức sống của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ mà còn góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; có tác dụng giáo dục toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc ta; về lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 
Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: “thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng…”[7]. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng” [8]. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên” [9]. Nhất quán chủ trương đó, để thực hiện tốt chính sách với người có công, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra quyết tâm chính trị là: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú” [10].
 
Tuy nhiên, việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục, giải quyết. Đó là tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở không ít địa phương; thậm chí còn nhiều nơi lợi dụng thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ để trục lợi bất chính. Công tác đền ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt. Ngoài ra, những việc làm tình nghĩa và phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ chưa được thực hiện thường xuyên, chưa phát triển đồng đều ở các địa phương, nhất là những nơi kinh tế còn khó khăn, v.v...
 
Trong thời gian tới, để khắc phục những hạn chế, thiếu sót còn tồn tại; đồng thời để thực hiện tốt hơn mong muốn của Bác Hồ lúc sinh thời về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
 
Một là, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và cả hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Người về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Tuyên truyền sâu rộng và vận dụng sáng tạo thực hiện thắng lợi tư tưởng nhân văn cao đẹp của Bác Hồ kính yêu về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ mới.
 
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tích cực triển khai đồng bộ, thống nhất và kịp thời tất cả chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ. Tăng cường kiểm tra, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm; kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách, bảo đảm đầy đủ yêu cầu về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, có đủ khả năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể nhằm thực hiện tốt nhất quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ để ngày càng đi vào thực tiễn đời sống xã hội.
 
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, xã hội hóa công tác chăm sóc thương binh, gia đình chính sách và người có công; mở rộng các chương trình tình nghĩa phong phú, đa dạng, thiết thực; tập trung thực hiện có hiệu quả các chương trình tình nghĩa, như: Xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa…; chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh nặng, bố mẹ liệt sĩ già yếu, cô đơn, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, ưu tiên đào tạo và tạo việc làm đối với con thương binh, bệnh binh, con liệt sĩ và người có công.
 
Bốn là, tập trung mọi nguồn lực giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng trong công tác chính sách sau chiến tranh. Hoàn thành cơ bản công tác xác nhận thương binh, liệt sĩ và một số đối tượng khác; tiếp tục tiến hành khảo sát, tìm kiếm, phát hiện, quy tập hài cốt liệt sĩ, nhất là ở các xã biên giới, các vùng căn cứ cách mạng, vùng xảy ra các trận đánh lớn trong kháng chiến, các phần mộ liệt sĩ trên đất nước bạn…
 
Năm là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên và tạo điều kiện để các đồng chí thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh; góp phần ổn định và nâng cao đời sống của chính các đối tượng, gia đình chính sách, xứng đáng người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu.
 
Thực hiện việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ là trách nhiệm chính trị, truyền thống, tình cảm và sự tri ân của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đối với những người đã hy sinh xương máu, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Làm tốt công tác này là hành động thiết thực nhất để thực hiện tốt ý nguyện và lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đối với những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng” [11].
 
Chú thích:
 
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.486.
 
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5,tr.579.
 
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.401.
 
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.372.
 
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.401.
 
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.616.
 
[7] ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 558.
 
[8] ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb CTQG, H, 2007, tr. 102.
 
[9] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H, 2016, tr.136.
 
[10] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, t. I, tr. 148 - 149
 
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.135.

 

TS Đặng Công Thành, Học viện Chính trị, BQP

Theo http://hochiminh.vn

Các bài viết khác

Mua vé trực tuyến
Đặt vé ngay
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử

Bảo tàng Hồ Chí Minh

Đăng ký nhận bản tin

Gửi